Số lượng lao động tại Nhật chết vì làm việc quá sức ngày càng tăng

Theo tờ Reuters (Nhật Bản) , lượng bồi hoàn có liên quan tới tử vong vì làm việc quá sức, hay còn gọi là “karoshi” , một hiện tượng hồi trước có liên quan đến áp lực tiền lương đang tăng thêm trong số những người làm mướn trẻ và phụ nữ .

Gần đây, Bộ Lao động Nhật thông báo con số đơn khiếu kiện đòi đền bù từ gia đình những người lao động thiệt mạng hoặc tự sát vì làm việc quá nhiều tăng lên mức kỷ lục 1.456, tính đến tháng 10 / 2014 .Các nạn nhân thiệt mạng chủ yếu làm việc trong các ngành dịch vụ y tế, an sinh xã hội, vận tải và xây dựng. Đây cũng là những ngành thiếu hụt lao động trầm trọng tại Nhật Bản .

Hiroshi Kawashito, Tổng thư kí của Hiệp hội bảo vệ các nạn nhân của hiện tượng Karoshi cho biết con số thực tại phải gấp hơn 10 lần so với số vụ việc được chính phủ ghi nhận. “ Chính phủ đã tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề và truyền thông rộng rãi về vấn đề này, nhưng đó chỉ là tuyên truyền . ” . “ Vấn đề thực tại đó là giảm giờ làm việc, và chính phủ thì vẫn chưa thi hành đủ ” . Bộlao động đã không hề phản hồi lại những nhận xét trên.


Người đi bộ qua ngã tư Shibuya tại Tokyo. 

Kawahito, một luật sư đã giải quyết một vụ liên quan đến Karoshi từ những năm 1980, cho hay có tới 95% các vụ án mà anh phụ trách là đàn ông trung niên làm việc làm văn phòng, nhưng Trong bài viết này có 20% là nữ giới . Nhật Bản chẳng có luật nào giới hạn về thời gian làm việc , nhưng bộ lao động đã nhận định có 2 dạng karoshi: tử vong vì suy tim do làm việc quá sức, và tự tử vì công việc quá stress .

Những trường hợp tử vong do suy tim có khả năng được coi là karoshi nếu nhân viên đó lầm việc quá 100 giờ vào tháng trước, hoặc hơn 80 giờ vào 2 tháng luôn luôn .

Các vụ tự tử có thể cho là karoshi nếu nhân viên làm việc quá ít nhất 160 giờ trong một tháng hoặc quá 100 giờ trong 3 tháng không ngừng . Tỷ lệ các vụ tự tử đã lên đến 45% trong vòng 4 năm qua trong độ tuổi từ 24 trở xuống, và 32 xác suất đối với nữ giới theo số liệu tổng hợp của bộ Lao động.

Hai tầng lớp lao động


Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi lực lượng lao động tại Nhật Bản được chia ra làm 2 tầng lớp riêng biệt là nhân viên thông thường , và những lao động tạm thời, thường là phụ nữ và người trẻ. năm trước , số lao động tạm thời lên đến 25 phần trăm , tăng từ 20% vào năm 1990, và 68% trong số đó là nữ.

Luật sư và các giáo viên cho rằng các nhân viên chẳng có nguyên tắc sẽ tạo ra luật “trả giá” , quảng cáo các công việc toàn thời gian với giờ làm việc chính đáng, nhưng sau đó sẽ kí hợp đồng tạm thời với giờ làm việc dài hơn, đôi khi là qua đêm và cuối tuần mà không trả thêm lương.

Từ chối việc trả thêm lương do làm việc ngoài giờ là trái luật, và người ứng tuyển có thể từ chối việc làm đó, nhưng những phần tử tích cực nói rằng DN nói với họ rằng sẽ kí hợp đồng bình thường sau 6 tháng.

Những người trẻ thường bằng lòng vì thiếu kinh nghiệm , còn phụ nữ lại cảm thấy rất gian lao khi phấn đấu quay trở lại thị trường lao động sau khi sinh con .

Emiko Teranishi, hàng đầu hiệp hội các gia đình phải đối diện với Karoshi cho biết , cô đã nghe rất nhiều lời phàn nàn về phương sách thuê người, một ít DN cho hay thuê mới thì lương của họ phải bao gồm 80 giờ làm ngoài giờ , và họ phải hoàn trả công ty nếu làm việc thiếu giờ. Teranishi, người có chồng đã tự tử vì lầm việc quá sức nói: “ một vài người còn không nhận đủ số lương ít nhất từ hệ thống này ” .

Sự lạm dụng này đã trở nên phổ biến trong 10 năm qua và các công ty đã bị truyền thông gán cho cái tên là “ doanh nghiệp đen” . Hirokazu Ouchi, một giáo viên của đại học Chukyo, đã viết một cuốn sách vào năm 2015 về các công ty này khi ông nhận ra sinh viên của mình đang bị đối xử trái luật khi đi làm thêm .

Ouchi cho hay việc thuê người đã hình thành một kiểu điển hình. “ Các DN sẽ thuê người trong vòng 2 đến 3 năm , nhưng họ sẽ không dành thời gian hay tiền bạc để đầu tư phát triển, nâng cao trình độ của nhân viên. ” Ouchi nói. Ông cũng cho biết rằng Bộ Lao động thiếu quyền lực để sửa chữa những lời phàn nàn này. 

Một nhân viên thuộc Bộ lao động thừa nhận rằng bộ phận của anh ta thiếu người nhưng chính phủ không hề có động thái tuyển thêm nhân viên hàng năm. Anh ta từ chối cho hay tên vì không được quyền công khai với truyền thông.

Dân số lao động của Nhật Bản đã giảm xuống từ giữa những năm 1990 khiến cho các DN phải cải thiện thực trạng làm việc để thú vị thêm nhân lực , nhưng Ouchi cho biết điều đó đã không xảy ra vì họ hoàn toàn có thể bẻ cong luật. “ Đây là một cách để các công ty giữ cho chi phí lao động thấp, nhưng cũng là một con đường dẫn tới sự tử vong vì làm việc quá sức ” ông nói.